Tegretol là một thuốc có thành phần carbamazepine. Nó được dùng khi nào? Với liều như thế nào? Chúng ta hãy tìm hiểu qua bài viết dưới đây cùng các chuyên gia Dược Sài Gòn nhé!
- Dược sĩ giải thích Oracortia là thuốc gì?
- Lưu ý khi sử dụng thuốc giảm đau cho người cao tuổi
- Tìm hiểu công dụng Thuốc Magnesi b6
Thuốc Tegretol được dùng trị bệnh động kinh
Chỉ định Tegretol
Theo các chuyên gia từ Trường Cao Đẳng Dược Sài Gòn thuốc Tegretol chỉ định trong trường hợp sau:
- Thuốc được dùng trị động kinh cục bộ: Loại phức tạp, loại đơn giản.
- Thuốc còn giúp trị động kinh toàn thể nguyên phát hoặc thứ phát kèm theo cơn co cứng – co giật tonic – clonic. Hỗn hợp của các loại trên.
- Tegretol có thể được dùng đơn trị hay kết hợp với các thuốc chống co giật khác. Tegretol thường không có hiệu quả trong cơn vắng ý thức (petit mal). Điều trị hưng cảm và phòng ngừa cơn hưng trầm cảm (lưỡng cực). Hội chứng cai nghiện rượu.
- Đau dây thần kinh số V (tam thoa) tự phát và do bệnh xơ cứng rải rác. Đau dây thần kinh lưỡi hầu tự phát.
Tegretol có thể được dùng đơn trị hay kết hợp với các thuốc chống co giật khác
Chống chỉ định Tegretol
Theo dược sĩ Cao Đẳng Dược Sài Gòn thuốc chống chỉ định với bệnh nhân quá mẫn cảm với carbamazepine và các thuốc có cấu trúc tương tự (như thuốc chống trầm cảm 3 vòng), bloc nhĩ-thất, tiền sử bị giảm sản tủy, tiền sử bị rối loạn chuyển hóa porphyrine cấp tính từng đợt. Về lý thuyết (dựa vào cấu trúc giống thuốc chống trầm cảm 3 vòng), không nên dùng Tegretol kèm với thuốc ức chế monoamine oxidase (IMAO). Phải ngừng thuốc IMAO tối thiểu (hoặc hơn nếu điều kiện lâm sàng cho ph p) trước khi dùng Tegretol.
Tương tác Tegretol Tegretol
Do tác dụng tới hệ enzyme gan mono-oxygenase, carbamazepine có thể làm hạ thấp nồng độ hoặc làm mất tác dụng của một số thuốc chuyển hóa qua hệ này. Liều lượng của các thuốc này có thể cần điều chỉnh để phù hợp với các yêu cầu lâm sàng: clobazam, clonazepam, ethosuximide, primidone, acid valproic, alprazolam ; corticosteroid (như prednisolone, dexamethasone); cyclosporin, digoxin, doxycycline, felodipine, haloperidol, imipramine, methadone; thuốc tránh thai uống (cần lựa chọn các phương thức tránh thai thích hợp); theophylline; thuốc chống đông uống (warfarin, phenprocoumone, dicoumarol). Carbamazepine được ghi nhận làm tăng và giảm nồng độ mephenytoin. Các thuốc sau làm tăng nồng độ carbamazepine: erythromycine, troleandomycine, có thể josamycine, isoniazide, verapamil, diltiazem, dextropropoxyphene, viloxazine, fluoxetine, cimetidine, acetazolamide, danazol, desipramine, và nicotinamide (ở người lớn, và chỉ với liều cao). Việc tăng nồng độ carbamazepine máu có thể dẫn tới các phản ứng phụ (như choáng váng, ngủ gà, mất điều hòa, song thị), cần chỉnh liều Tegretol cho phù hợp và/hoặc theo dõi nồng độ thuốc trong máu. Việc tăng khả năng nhiễm độc gan do isoniazid được ghi nhận khi dùng kết hợp với thuốc này. Dùng phối hợp với lithium hoặc metoclopramide, hay với các thuốc an thần kinh (như haloperidol, thioridazine) có thể làm tăng các phản ứng về thần kinh (với thuốc an thần kinh ngay ở nồng độ hiệu dụng).
Nồng độ carbamazepine có thể bị giảm do phenobarbital, phenytoin, primidone, progabide, theophylline và có thể (mặc dù có tài liệu nhận x t ngược lại) do clonazepam, acid valproic, valpromide. Cũng có trường hợp ghi nhận acid valproic, valpromide và primidone làm tăng nồng độ của hoạt chất carbamazepine-10,11-epoxide. Liều dùng Tegretol nên điều chỉnh nếu cần. Việc dùng phối hợp với một số thuốc lợi tiểu (như hydrochlorothiazide, furosemide) có thể làm giảm natri huyết. Carbamazepine có thể có tác dụng đối kháng với các thuốc giãn cơ không gây khử cực (như pancuronium). Các thuốc này do vậy cần được dùng với liều cao hơn, trong khi theo dõi chặt chẽ do việc loại bỏ nhanh hơn tác dụng ức chế thần kinh cơ. Isotretinoin được ghi nhận làm thay đổi tính khả dụng sinh học và/hoặc sự thanh thải của carbamazepine và carbamazepine-10,11-epoxide ; nồng độ carbamazepine cần được theo dõi khi dùng phối hợp thuốc. Như các thuốc hướng thần khác, Tegretol có thể làm giảm sự dung nạp rượu, và do vậy người bệnh không nên uống rượu trong khi điều trị.
Nguồn tapchisuckhoe.edu.vn