Một số lưu ý về các hệ nhóm máu

Mỗi một nhóm máu mang những đặc trưng riêng biệt. Bên cạnh đó, nhóm máu có thể tiết lộ một số thông tin về sức khỏe của bạn từ bệnh tim và đột quỵ đến một số loại ung thư.

Các nhóm máu trong cơ thể người
Các nhóm máu trong cơ thể người

Trên màng tế bào thân của cơ thể người có những protein đặc trưng và những protein này có đặc tính kháng nguyên. Trên màng hồng cầu có những kháng nguyên hồng cầu, trên màng bạch cầu, tiểu cầu có những kháng nguyên bạch cầu và tiểu cầu. Những kháng nguyên trên màng hồng cầu nói riêng phản ánh các hệ nhóm máu của mỗi người.

Cơ sở di truyền của nhóm máu

Các kháng nguyên nhóm máu là các sản phẩm protein trên màng hồng cầu, mà quá trình tổng hợp những protein này được mã hóa bởi các gen nằm trên nhiễm sắc thể, các gen tập hợp thành hệ thống. Sự phối hợp giữa các gen của một hay nhiều hệ thống sẽ tạo ra những tình trạng đó là nhóm máu. Alen là một dạng trong những dạng có thể của một hệ thống gen. Mỗi vị trí đặc thù trên nhiễm sắc thể gọi là locus chỉ có một alen.

Ví dụ locus của hệ ABO nằm ở nhiễm sắc thể số 9 và ở đó chỉ một trong ba gen: A hoặc B hoặc 0. Các alen chiếm các locus hoàn toàn giống nhau trên 2 nhiễm sắc thể tương đồng và khi phân bào giảm nhiễm chúng phân ly độc lập với nhau. Kiểu gen là toàn bộ thông tin di truyền cho một hệ nhóm máu của một cá thể, nói lên sự có mặt của các alen của hệ thống đó.

Muốn xác định kiểu gen người ta thường suy diễn từ kiểu hình của cá thể phối hợp với nghiên cứu phả hệ. Các bác sĩ tư vấn chuyên môn tại Tin tức Y tế Việt Nam cho hay, ngày nay có thể sử dụng kỹ thuật sinh học phân tử để xác định kiểu gen. Kiểu hình là tình trạng được thể hiện. Nhóm liên kết là tập trung các gen ở trên cùng một nhiễm sắc thể; thường cùng đi với nhau qua phân bào giảm nhiễm.

Nồng độ kháng thể và bản chất kháng thể liên quan đến ngưng kết
Nồng độ kháng thể và bản chất kháng thể liên quan đến ngưng kết

Phản ứng kháng nguyên kháng thể nhóm máu

Kháng thể gắn lên kháng nguyên trên hồng cầu ở trong cơ thể có thể dẫn đến làm ngưng kết hồng cầu, phá vỡ hồng cầu trong lòng mạch sau vài phút, cố định lên hồng cầu và kéo theo kết hợp bổ thể, làm tan hồng cầu, cố định lên hồng cầu, làm thay đổi màng hồng cầu, sau đó các hồng cầu này bị các tế bào thực bào ở hệ liên võng tiêu diệt. Nghiên cứu đời sống của hồng cầu truyền vào có thể biết được có kháng thể chống lại hồng cầu đó ở người nhận hay không.

Bên cạnh đó phản ứng kháng nguyên kháng thể còn phụ thuộc vào đặc điểm kháng thể và kháng nguyên. Bản chất kháng thể là kháng thể có khả năng làm ngưng kết hồng cầu ở môi trường nước muối 0,9%, ngược lại những kháng thể không làm ngưng kết hồng cầu ở môi trường nước muối gọi là kháng thể không ngưng kết. Nói chung kháng thể tự nhiên, đều đặn thường là IgM và là kháng thể ngưng kết. Các kháng thể miễn dịch IgG thường không gây ngưng kết mà phải sử dụng các biện pháp khác.

Đánh giá một kháng thể cần dựa vào tính đặc hiệu với kháng nguyên, hiệu giá và ái lực. Nồng độ kháng thể và bản chất kháng thể liên quan đến ngưng kết: Người ta thấy chỉ cần 25 phân tử kháng thể loại IgM gắn lên kháng nguyên trên hồng cầu có thể gây ngưng kết, trong khi đó phải cần tới 200.000 phân tử IgG mới gây được ngưng kết. Tuy nhiên, một số kháng thể nếu nồng độ quá caọ có thể ức chế ngưng kết, tạo hiện tượng khu vực, muốn phát hiện cần pha loãng ở các mức khác nhau. Số vị trí kháng nguyên trên một hồng cầu ảnh hưởng đến ngưng kết nếu số vị trí kháng nguyên (các quyết định kháng nguyên – nơi kháng thể gắn vào) trên hồng cầu quá thấp thì hiện tượng ngưng kết khó xảy ra.

Ngoài ra đặc điểm của kháng nguyên cũng có vai trò tạo ra ngưng kết. Tỷ lệ kháng nguyên trong phản ứng cũng quan trọng và cần tương ứng với kháng thể. Thường khi định nhóm máu ABO người ta dùng hồng cầu pha trong nước muối 2% và 5%.

Nguồn: tapchisuckhoe.edu.vn