Đặc điểm và công dụng của vị thuốc bạch hoa xà

Bạch hoa xà hay còn gọi là bạch tuyết hoa, cây chiến (Bắc Lệ, Lạng Sơn), cây đuôi công, pít phì khao (Luang Prabang), xitraca (Ấn Độ).

Hoa của vị thuốc bạch hoa xà
Hoa của vị thuốc bạch hoa xà

Bạch tuyết hoa tên khoa học Plumbago zeylanica L. (Thela alba Lour), thuộc họ Đuôi công Plumbaginaceae.

Đặc điểm của vị thuốc bạch hoa xà

Bạch hoa xà là một loài cỏ sống dai, cao 0,30 – 0,60m, có thân rễ, thân có đốt và nhẵn. Hoa màu trắng, mọc thành bông ở đầu cành hay kẽ lá, đài hoa có lông dài, nhớt. Lá mọc so le, hình trứng đầu nhọn, phía cuống hơi như ôm vào thân, mép nguyên, không có lông, nhưng mặt dưới hơi trắng nhạt. Tràng đài gấp 2 lần đài. Mùa hoa gần như quanh năm nhưng nhiều nhất vào các tháng 5 – 6.

Bạch hoa xà mọc hoang ở khắp nơi ở Việt Nam từ miền Nam đến miền Bắc, từ vùng núi đến đồng bằng đều có. Vị thuốc này cũng được tìm thấy ở Nam Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Malaixia, Indonesia, châu Phi.

Bạch hoa xà dùng rễ tươi, tuy nhiên để lâu kém tác dụng. Rễ đào về có đường kính 2 – 5cm, khi khô có màu đỏ nhạt, mép ngoài sẫm, có những rãnh dọc, phần trong màu nâu, vị hắc và buồn nôn, tính chất ăn da và làm phồng da. Có nơi dùng cả lá tươi để làm thuốc.

Công dụng và liều dùng của vị thuốc bạch hoa xà

Cây bạch hoa xà thường được nhân dân làm thuốc chữa những bệnh ngoài da, vết thương, vết loét bằng cách dùng rễ hay lá giã nhỏ với cơm cho thành một thứ bột nhão và đắp lên những nơi sưng đau. Tuy nhiên cũng có những nơi sắc rễ lấy nước bôi ghẻ, lá bạch hoa xà giã nát đắp lên đầu chốc lở đã rửa sạch, nếu thấy bỏng thì bỏ ra.

Một số người dân châu Phi còn dùng nhựa cây này bôi lên các hình vẽ trên người trên người bằng dao cạo để cho hình nổi lên do nhựa của cây bạch hoa xà làm chậm sự thành sẹo, có tác dụng tăng sinh trưởng những tổ chức đã bị rạch.

Đặc điểm và công dụng của vị thuốc bạch hoa xà
Đặc điểm và công dụng của vị thuốc bạch hoa xà

Ở một số nước châu Phi, người ta dùng bột rễ cây này trộn với chất nhầy của một số loại dâm bụt (Hibiscus esculentus) để đắp lên các vết hủi, sau đó người ta đắp lên đó một loại lá khô của một cây có nhựa chưa xác định được tên khoa học, nhưng dân Nigiêria (châu Phi) đã gọi tên là cây Niêcca.

Tại Ấn Độ và Nhật Bản, người ta dùng rễ cây này làm thuốc sảy thai bằng cách cho thai phụ uống bột rễ cây này hay tán một ít bột cho vào khoang tử cung, thai sẽ tự ra do bị kích thích. Tuy nhiên cách làm này dễ gây viêm tử cung, thậm chí là tử vong.

Ngoài ra ở nước ta có một cây cùng họ với cây bạch hoa xà là cây đuôi công hay xích hoa xà (Thela coccinea Lour hay Plumbago rosea L – Plumbago coccinea Boiss). Cây nhỏ, có thân cứng, trên có rãnh dọc, nhẵn. Hoa màu đỏ mọc thành bông dài ở đầu cành, trên có khi phân nhánh, ống tràng dài gấp 4 lần ống dài. Lá hình mác, hơi tù ở đầu, phía dưới ôm vào thân, dài 10cm, rộng 4cm hay hơn. Cũng mọc hoang ở nhiều nơi trong nước ta, nhân dân sử dụng cũng như cây bạch hoa xà.

Tại Bắc Lệ, người ta dùng chữa đau xương, đau gân, làm ra thai. Thường dùng lá, nếu đau xương đào lấy rễ để dùng.

Lá xào ăn được, ăn nhiều thì tẩy. Nấu canh với dấm hay chanh. Uống độ một bát canh, sau một giờ thì đi ngoài, người không mệt; nếu muốn thôi đi ngoài, vò lá với nước lạnh uống 1/2 chén. Uống lạnh.

Tại Ấn Độ, người ta dùng bột rễ cây này trộn với dầu để thoa bóp những nơi bị tê liệt và tê thấp. Ngoài ra còn chữa hủi, ung thư và một số bệnh ngoài da khác (Revue botanique appliquee et Agriculture coloniale).

Nguồn: tapchisuckhoe.edu.vn