Bác sĩ Cao đẳng Y học cổ truyền khám phá công dụng chữa bệnh của Phụ tử

Trong kho tàng dược liệu Y học cổ truyền, Phụ tử là một trong những vị thuốc nổi bật với công năng hồi dương, ôn thận và thông kinh lạc. Tuy nhiên, đây cũng là dược liệu có độc tính mạnh, đòi hỏi sự cẩn trọng cao khi sử dụng.

Phụ tử được chế biến từ rễ con của cây Ô đầu, có tên khoa học Aconitum fortunei Hemsl, thuộc họ Hoàng Liên. Cây ô đầu là loại thân thảo, sống lâu năm, cao khoảng 0,6 – 1 mét, thân thẳng đứng, có lông tơ mịn. Rễ của cây có hình dáng giống con quay, trong đó rễ cái lớn sẽ sinh ra các rễ nhỏ hơn – đây chính là phần được gọi là phụ tử sau khi phơi hoặc sấy khô.

Lá cây mọc so le, xẻ thùy khá sâu, mép lá có răng cưa sắc. Hoa mọc thành cụm, màu xanh tím đặc trưng, dài khoảng 6 – 15 cm. Quả mỏng như giấy, hạt có dạng vảy. Khi được thu hái, phần rễ con sẽ được làm sạch, chế biến và phân loại thành các dạng như Diêm phụ tử, Hắc phụ tử và Bạch phụ tử, mỗi loại có hình dạng và cách sử dụng riêng. Cụ thể như sau:

Diêm phụ tử: Củ có hình tròn hoặc hơi thuôn dài, màu tro, bên ngoài phủ lớp muối trắng, có các điểm nhô như gai gọi là “đinh giác”. Khi bẻ ra thấy có ruột đặc, màu xám, vị cay và hơi tê đầu lưỡi.

Hắc phụ tử: Được thái mỏng theo chiều dọc, bên ngoài màu nâu đậm, trong ruột có ánh vàng nhạt, chất cứng, giòn như sừng.

Bạch phụ tử: Tương tự Hắc phụ tử nhưng có màu trắng vàng, trong suốt hơn, vị nhạt và không mùi.Tất cả các dạng đều cần bảo quản trong lọ kín, tránh ẩm và nhiệt độ cao. Do độc tính cao, Phụ tử và các chế phẩm từ nó thuộc nhóm thuốc độc bảng A hoặc B, nên cần kiểm soát chặt chẽ khi sử dụng.

Theo Y học hiện đại, Phụ tử đã được nghiên cứu và chứng minh có một số tác dụng như:

Chống viêm: Có hiệu quả rõ rệt trong việc giảm viêm khi tiêm cho động vật thí nghiệm bị viêm khớp.

Tác động đến tuyến thượng thận: Làm giảm bài tiết vitamin C và có thể thúc đẩy hoạt động chuyển hóa mỡ, đường, protein – dù một số nghiên cứu vẫn còn chưa thống nhất.

Ảnh hưởng đến thần kinh trung ương: Aconitin – hoạt chất có trong Phụ tử – có thể làm giảm phản xạ, giảm nồng độ amoniac trong não.

Cường tim và tuần hoàn: Liều lượng lớn có thể làm tăng co bóp tim, cải thiện lưu thông máu nhưng cũng dễ gây tụt huyết áp sau đó.

Theo Đông y, Phụ tử có tính nóng mạnh (đại nhiệt), vị cay, ngọt, hơi đắng và rất độc. Thuốc thường được dùng trong các tình trạng như vong dương, chân tay lạnh giá, đau nhức xương khớp, tiêu chảy kéo dài do hàn, phù thũng và suy nhược nặng.

Liều thông thường của Phụ tử đã được chế là từ 2,4 – 9g mỗi ngày. Với trường hợp nặng, có thể tăng lên 15 – 30g nhưng chỉ khi có chỉ định từ thầy thuốc. Để giảm độc tính, Phụ tử cần được nấu kỹ trước khi cho các vị thuốc khác vào, thường đun riêng 30 – 60 phút.

Dạng sắc thuốc uống là phổ biến nhất. Ngoài ra, Phụ tử cũng có thể kết hợp với các dược liệu như quế nhục, can khương, cam thảo, nhân sâm… nhằm điều hòa dược tính và giảm nguy cơ ngộ độc.

Theo các bác sĩ, giảng viên Cao đẳng Y học cổ truyền Sài Gòn cho biết, Phụ tử tuy có nhiều lợi ích nhưng nếu dùng sai liều hoặc sai cách rất dễ gây ngộ độc. Các dấu hiệu thường thấy bao gồm: tê môi lưỡi, buồn nôn, tiêu chảy, chóng mặt, co giật, tụt huyết áp, rối loạn nhịp tim, thậm chí hôn mê.

Khi xảy ra ngộ độc, có thể áp dụng một số biện pháp giải độc dân gian như uống nhục quế pha nước, hoặc dùng bài thuốc gồm kim ngân hoa, đậu xanh, cam thảo và gừng tươi sắc lấy nước uống. Trên lâm sàng, các bác sĩ thường sử dụng Atropin hoặc Lidocaine để cấp cứu.

Không nên dùng Phụ tử cho phụ nữ mang thai, người âm hư hỏa vượng, chân nhiệt giả hàn. Ngoài ra, người có cơ địa dị ứng hoặc nhạy cảm cũng cần thận trọng, nên bắt đầu với liều cực thấp và theo dõi phản ứng cơ thể trước khi tăng liều.

Phụ tử là một vị thuốc đặc biệt quý giá trong Đông y với khả năng hồi dương cứu nghịch, ôn bổ thận khí mạnh mẽ. Tuy nhiên, tính độc cao của nó đòi hỏi sự thận trọng tối đa trong quá trình sử dụng. Việc dùng Phụ tử cần có chỉ dẫn của thầy thuốc có kinh nghiệm, không nên tự ý dùng tại nhà để tránh những hậu quả.