Bệnh thận đái tháo đường dùng để chỉ những tổn thương cầu thận thứ phát do bệnh lí đái tháo đường. Đây là một biến chứng điển hình của đái tháo đường typ I phụ thuộc Insulin.
- Nước hoa hồng món quà cho sức khỏe và sắc đẹp
- Nguyên nhân và biện pháp phòng tránh tiểu vặt khi mang thai
- Phòng và điều trị khi tiếp xúc với trực khuẩn mủ xanh
Mối liên hệ giữa bệnh Đái tháo đường và bệnh thận
Bệnh thận đái tháo đường xuất hiện từ năm thứ 10 ở bệnh nhân đái tháo đường phụ thuộc Insulin. Đây là biến chứng phổ biến của bệnh nhân mắc đái tháo đường và là nguyên nhân khiến bệnh nhân giảm tuổi thọ. Nếu không được điều trị hiệu quả, một nửa số bệnh nhân tử vong sau 7 năm xuất hiện triệu chứng protein niệu. Tỉ lệ tử vong ở nhóm bệnh nhân mắc bệnh cầu thận do ĐTĐ cao gấp 37 lần so với các đối tượng khác. Bệnh thận đái tháo đường là nguyên nhân chiếm vị trí thứ nhất của suy thận mạn ở các nước phương tây: 25 đến 50% và hơn 90% là đái tháo đường typ 2
Triệu chứng bệnh thận ở bệnh nhân mắc Đái tháo đường
Theo chia sẻ của các Bác sĩ chuyên khoa Trường Cao đẳng Dược Sài Gòn, triệu chứng cơ bản bao gồm: tăng huyết áp, protein niệu (mà thành phần chủ yếu là albumin), giảm mức lọc cầu thận.
- Tăng huyết áp: tăng huyết áp là triệu chứng cơ bản trên bệnh nhân mắc bệnh thận đái tháo đường, tuy nhiên mức độ tăng huyết áp phụ thuộc vào từng giai đoạn bệnh.
- Albumin niệu: bình thường albumin trong nước tiểu dao động từ 20-30mg/ngày, khi lượng nước tiểu từ 30mg – 300mg/ngày (từ 20 đến 200 μg/phút) gọi là microalbumin niệu: đây là một chỉ điểm bất thường sớm ở thận, có giá trị trong chẩn đoán ở giai đoạn còn sớm của đái tháo đường trên thận. Khi nồng độ albumin nước tiểu từ 300mg/24h trở lên gọi là tiểu albumin niệu đại thể. Việc bài tiết albumin trong nước tiểu là rất khác biệt giữa các thời điểm ở trên cùng một cá thể, vì thế cần làm xét nghiệm albumin niệu nhiều lần để đánh giá
- Giảm mức lọc cầu thận: đây là một triệu chứng để chẩn đoán suy thận, biến chứng của đái tháo đường giai đoạn cuối. Hệ số thanh thải creatinin là yếu tố đánh giá mức lọc cầu thận. Tuy nhiên cần lưu ý khi lượng creatinine có thể sai số do tăng đường huyết.
Để đánh giá tổn thương cầu thận trong bệnh nhân có nền tảng đái tháo đường người ta còn dựa vào thời gian mắc bệnh đái tháo đường: Những bệnh nhân đái tháo đường phụ thuộc Insulin nhiều năm có nguy cơ mang biến chứng này nhiều. Ngoài ra bệnh nhân đang có biểu hiện của bệnh mạch máu vi thể (nhất là ở bệnh lý võng mạc do đái tháo đường) cũng là đối tượng có nguy cơ cao. Bệnh nhân đái tháo đường khi có tam chứng của bệnh lý thận kèm thời gian mắc bệnh nhiều năm và có bệnh lý võng mạc, khả năng có bệnh thận đái tháo đường là lớn hơn 95%.
Bệnh thận đái tháo đường là một bệnh lí biến chứng
Phòng bệnh thận ở bệnh nhân Đái tháo đường
Dược sĩ Đại học tư vấn, bệnh thận đái tháo đường là một bệnh lí biến chứng của đái tháo đường typ 1 phụ thuộc Insulin nguyên phát, do đó điều trị có thể sử dụng điều trị ức chế miễn dịch. Bệnh nhân có thể phòng bệnh ĐTĐ typ 2 bằng cách thay đổi lối sống và sinh hoạt (tăng cân béo phì, ăn đồ chiên xào, hút thuốc, bệnh nhân có lối sống tĩnh tại ít vận động.
Dự phòng nguyên phát và thứ phát bệnh lí cầu thận do đái tháo đường bao gồm các dự phòng như sau:Kiểm soát đường máu ở mức ổn định: Ổn định đường huyết là mục tiêu được ưu tiên hàng đầu trong điều trị và dự phòng biến chứng ở bệnh nhân có mắc đái tháo đường. Mục tiêu điều trị cần đạt được HbA1C <7%. Thông thường trên bệnh đái tháo đường có biến chứng thận điều trị giữ đường huyết ổn định khó khăn hơn so với không có biến chứng thận. Điều trị chống tăng huyết áp có thể dự phòng bệnh thận do đái tháo đường hoặc làm chậm tiến triển của nó.
Điều trị phòng chống tăng huyết áp có thể dự phòng được bệnh thận do đái tháo đường hoặc có thể làm chậm tiến triển bệnh. Bệnh nhân ĐTĐ có điều trị bằng thuốc ức chế thụ thể angiotensine II làm giảm nguy cơ protein niệu đại thể và suy thận mạn. Ở những bệnh nhân mắc ĐTĐ typ 1 điều trị thuốc ức chế men chuyển thông thường làm bình thường huyết áp cũng cho kết quả điều trị tương tự. Bệnh nhân ngừng hút thuốc lá sẽ giảm 30% nguy cơ xuất hiện bệnh và giảm độ nặng của microalbumin niệu trong cả 2 thể của đái tháo đường.
Nguồn: tapchisuckhoe.edu.vn