Hà thủ ô: Cây thuốc quanh ta bổ can, thận

Theo Đông y, hà thủ ô vị đắng ngọt chát, tính hơi ôn, vào các kinh can và thận. Vị thuốc có tác dụng bổ can thận, nhuận tràng thông tiện, dưỡng huyết bổ âm giải độc.

Hà thủ ô: Cây thuốc quanh ta bổ can, thận
Hà thủ ô: Cây thuốc quanh ta bổ can, thận

Hà thủ ô còn gọi là thủ ô, giao đằng, dạ hợp… Tên khoa học: Fallopia multiflora (Thunb.) Haraldson., họ rau răm (Polygonaceae). Hà thủ ô là rễ củ phơi hay sấy khô của cây hà thủ ô.

Theo các thầy thuốc Đông y, hà thủ ô dùng cho người can thận âm hư, huyết hư, đau lưng mỏi gối ù tai điếc tai, đau đầu hoa mắt chóng mặt, râu tóc bạc sớm, huyết trắng, di tinh, hội chứng lỵ mạn tính, táo bón, trĩ xuất huyết, sốt rét, bệnh mạch vành, lao hạch, tăng huyết áp, xơ vữa động mạch, mỡ máu cao. Liều dùng: 12 – 60g. Bổ huyết thì dùng hà thủ ô chế; nhuận tràng thông tiện thì dùng hà thủ ô sống.

Bài thuốc trị bệnh có sử dụng hà thủ ô

Hà thủ ô được sử dụng nhiều trong các bài thuốc bắc thuốc nam như:

Bổ huyết, an thần, dùng cho người huyết hư, lo lắng, mất ngủ, râu tóc bạc sớm: hà thủ ô chế 12g, bắc sa sâm 12g, quy bản 12g, long cốt 12g, bạch thược 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Trị chứng buồn bực, mất ngủ, mộng mị: dạ giao đằng 12g, đan sâm 12g, trân châu mẫu 60g. Sắc uống ngày 1 thang.

Dùng khi thiếu máu, tăng huyết áp, đầu váng, mắt hoa, chân tay tê cứng: hà thủ ô chế 12g, sinh địa 12g, huyền sâm 12g, bạch thược 12g, hạn liên thảo 12g, sa uyển tật lê 12g, hy thiêm thảo 12g, tang ký sinh 12g, ngưu tất 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Thuốc ích thận, cố tinh, dùng khi gan thận đều yếu, lưng và đầu gối đau nhức buốt, phụ nữ khí hư, di tinh – Thất bảo mỹ nhiệm đơn: hà thủ ô chế 20g, bạch linh 12g, ngưu tất 12g, đương quy 12g, thỏ ty tử 12g, phá cố chỉ 12g, câu kỷ tử 12g, kỷ tử 12g. Tất cả tán thành bột mịn, luyện với mật làm hoàn. Ngày 2 lần, mỗi lần uống 12g, chiêu bằng nước muối loãng.

Củ hà thủ ô
Củ hà thủ ô

Trường hợp sốt rét lâu ngày hại đến chân âm, sốt li bì triền miên dùng hai bài thuốc sau:

– Hà nhân ẩm: hà thủ ô chế 16g, đảng sâm 12g, đương quy 12g, trần bì 12g, gừng nướng12g. Sắc uống.

– Hà thủ ô sống 60g, sài hồ 12g, đậu đen 20g. Sắc với nước, đem phơi sương 1 đêm, sáng hôm sau hâm lại uống.

Thuốc nhuận tràng, thông tiện; trị các chứng huyết hư, tân dịch khô nên đại tiện bí: hà thủ ô tươi 30 – 60g. Sắc uống.

Hà thủ ô phối hợp với tang ký sinh, nữ trinh tử để chữa tăng huyết áp do xơ vữa mạch máu.

Hà thủ ô uống hàng ngày có thể chữa chứng tinh trùng yếu, tinh loãng.

Ngoài hà thủ ô đỏ, ở Việt Nam còn dùng rễ của cây hà thủ ô trắng (dây sữa bò, hà thủ ô Nam), thuộc họ thiên lý thay hà thủ ô đỏ làm thuốc bổ máu, tuy nhiên chưa có tài liệu nào nghiên cứu chi tiết. Theo kinh nghiệm dân gian, hà thủ ô có tác dụng chữa cảm sốt, sốt rét, cảm nắng, phụ nữ sau đẻ mà không có sữa.

Mặc dù hà thủ ô có nhiều công dụng nhưng không phải ai cũng có thể dùng. Người thể đàm thấp, tỳ hư, đại tiện lỏng không được dùng.

Chú ý: Khi thu hái hà thủ ô trắng cần hết sức tránh nhầm với dây càng cua cũng thuộc họ thiên lý; cây mác chim thuộc họ trúc đào (Apocynaceae); các cây này đều là cây có độc.

Nguồn: tapchisuckhoe.edu.vn