Đinh lăng bên cạnh công dụng trồng làm cảnh khá phổ biến ở nhiều nơi còn là vị thuốc hay trong y học cổ truyền với bộ phận dùng làm thuốc – rễ đinh lăng.
- Hạt dẻ là vị thuốc quý trong y học cổ truyền chữa nhiều bệnh
- Thanh nhiệt giải độc từ vị thuốc YHCT Liên kiều
- Bài thuốc Nam trị ho hiệu quả cho trẻ nhỏ vào mùa đông
Hiện nay có khá nhiều giống đinh lăng, tuy nhiên chỉ có loài đinh lăng lá nhỏ (Tieghemopanax Fruticosus Vig) thuộc họ nhân sâm (Araliaceae) được dùng làm thuốc chữa bệnh.
Theo chia sẻ từ Bác sĩ Y học Cổ truyền Trường Cao đẳng Dược Sài Gòn thì rễ đinh lăng thường được thu hoạch vào mùa thu – đông ở những cây đã được trồng từ 3 năm trở lên bởi đây là lúc rễ mềm, chứa nhiều hoạt chất có lợi đối với việc điều trì bệnh. Sau khi thu hái về, người ta đem rửa sạch, cắt bỏ phần rễ sát với gốc thân. Các thầy thuốc đông y cho hay, đối với rễ nhỏ thì dùng cả, nhưng rễ to chỉ dùng vỏ rễ. Sau đó đem thái nhỏ, phơi khô ở chỗ mát, thoáng gió đảm bảo mùi thơm và phẩm chất.
Các dạng thuốc từ rễ đinh lăng
Khi dùng, rễ đã thái nhỏ phơi khô được để nguyên hoặc tẩm rượu gừng 5%, sao qua rồi tẩm 5% mật ong, sao thơm. Trong y học cổ truyền, dược liệu này có tên là nam dương lâm, vị ngọt nhạt, hơi đắng, mùi thơm, tính mát bình không độc, được dùng dưới các dạng thuốc sau:
Thuốc sắc từ rễ đinh lăng: Bài thuốc từ rễ đinh lăng theo Hải Thượng Lãn Ông, rễ đinh lăng thái nhỏ, sao vàng 8-16g, sau đó sắc với 400ml nước còn 100ml, dùng cho phụ nữ sau khi sinh đẻ, uống thay chè để chống đau dạ con và làm tăng tiết sữa.
Thuốc ngâm rượu từ rễ đinh lăng: Rễ đinh lăng khô 100g không sao tẩm, đem tán nhỏ, ngâm với 1 lít rượu 30-35 độ trong 7-10 ngày. Lưu ý thỉnh thoảng cần lắc đều chúng.
Thuốc hãm từ rễ đinh lăng: Rễ đinh lăng sau khi đã sao tẩm 5-10g, đem thái nhỏ, hãm với nước sôi như hãm trà, uống làm nhiều lần trong ngày.
Liều dùng: Ngày dùng 2 lần, mỗi lần 5-10ml trước bữa ăn nửa giờ.
Thuốc bột và thuốc viên từ rễ đinh lăng: Trộn bột đinh lăng với mật ong vừa đủ làm thành viên, mỗi viên 0,25 – 5g. Ngày uống 2-4 viên, chia làm 2 lần. Ngoài ra có thể dùng rễ đinh lăng sao tẩm 100g, tán nhỏ, rây bột mịn. Ngày uống 0,5-1g.
Rễ đinh lăng làm thuốc
Theo các Dược sĩ tư vấn đông dược học, khi rễ định lăng được kết hợp với các vị thuốc phù hợp khác có thể chữa được nhiều chứng bệnh khác như:
Chữa thiếu máu: Rễ đinh lăng, thục địa, hà thủ ô,hoàng tinh mỗi vị 100g; tam thất 20g, tán nhỏ, rây bột sắc uống ngày 100g.
Điều trị sốt lâu ngày, háo khát, đau tức ngực, nhức đầu, nước tiểu vàng: Rễ đinh lăng tươi 30g, cam thảo dây 30g, rau má 30g, rễ sài hồ 20g, lá tre 20g, chua me đất 20g, vỏ quýt 10g, lá hoặc vỏ chanh 10g. Tất cả thái nhỏ, đổ ngập nước, sắc đặc lấy 250ml, chia làm 3 lần uống trong ngày.
Điều trị liệt dương: Rễ đinh lăng, ý dĩ, hoài sơn, hà thủ ô, hoàng tinh, kỷ tử, cám nếp, long nhãn, mỗi vị 12g; cao ban long, trâu cổ mỗi vị 8g, sa nhân 6g. Sắc suống trong ngày.
Chữa viêm gan mạn tính: Rễ đinh lăng 12g, nhân trần 20g, ý dĩ 16g, hoài sơn, chi tử, rễ cỏ tranh, biển đậu, ngũ gia bì, xa tiền tử, mỗi vị 12g; ngưu tất, uất kim, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày 1 thang.
Rễ đinh lăng mang nhiều tác dụng quan trọng trong việc điều trị bệnh, được giới đông y tin tưởng sử dụng và là vị thuốc hay trong YHCT. Hiện công dụng của rễ đinh lăng vẫn đang tiếp tục nghiên cứu. Hi vọng với sự tiến bộ của khoa học công nghệ có thể phát hiện nhiều hơn công dụng của chúng trong công tác chữa bệnh.
Nguồn: tapchisuckhoe.edu.vn